Trên tấm bản đồ Tây Bắc, nơi những dãy đại ngàn trùng trùng điệp điệp không thể thiếu đó là cây chè Shan Tuyết hoang dã cổ thụ, mọc từ hàng trăm – ngàn năm trước.
Tuyết Shan cổ thụ sinh trưởng tại nơi có độ cao hơn 2000m so với mực nước biển, với khí hậu vô cùng khắc nghiệt và quanh năm phủ trắng giá sương. Chính nơi đó lại cho những lá chè sinh trưởng khoẻ mạnh. Những búp trà , ngậm sương, trên bề mặt búp phủ lớp lông mao trắng muốt như tuyết, phủ dày ôm lấy tròn vẹn từng búp chè xanh mơn.
Trà Shan Tuyết Cổ Thụ nước Việt
Tinh hoa trà Việt mang dấu ấn riêng mà nơi Shan Tuyết sinh trưởng trải dài từ Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, tới Lai Châu, Điện Biên, Sơn La…Dấu ấn đó thi vị vì phải tuỳ thuộc vào điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, tập quán thu hái và chế biến thủ công sai khác của từng vùng – sẽ tạo nên những hương-vị trà Shan Tuyết hoàn toàn khác biệt.
Sự phong phú của Shan Tuyết còn được thể hiện thông qua phương thức chế biến mỗi loại trà khác nhau.
Bạch Trà
Cái tên trà shan tuyết bắt nguồn từ lớp lông mao trắng tinh khôi trên búp trà. Cũng vì những búp trà tuyết trắng hoàn toàn mà được gọi là Bạch Trà.
Bạch trà cổ thụ Shan Tuyết Suối Giàng
Khi pha ra, màu trà trong sáng tự nhiên, thường trắng vàng nhạt nhưng chủ đạo vẫn là màu trắng. Nếu bạn nhìn kỹ có thể thấy lớp lông mao nhỏ li ti trong nước.
Hương trà thơm mùi cỏ sớm, cảm giác ngọt thanh, mát lại hơi ngai ngái. Vị trà chát chứ không hề đắng. Khi uống vào đến nước thứ 3 cảm thấy dính dính ở cổ, sau đó ngọt dần.
Lục Trà
Được sử dụng 100% búp chè Shan Tuyết cổ thụ 1 búp 1 lá , 1 búp 2 lá…được hái bằng tay bởi người dân tộc H’Mông bản địa.
Khi pha cho màu nước vàng sánh, hương trà thơm mùi cỏ sớm, vị chát rất thanh – mạnh và dư vị ngọt kéo dài
Hồng Trà
Dùng búp trà tuyết trắng Shan tuyết, 1 búp 1 lá…được lên men thành Hồng Trà Shan tuyết
Hồng trà Shan cổ thụ một nõn một tôm Suối Giàng
Hồng trà Shan cho màu nước nâu đỏ trong và sáng, có hương thơm ngọt của trà Hồng Lão dậy mùi chín của trái cây rừng, vị ngọt dịu mà mát., vị chát nhẹ hơi chua, ngọt hậu.
Hồng Trà khác với trà xanh ở chỗ ủ cho lên men sau khi héo nắng. Chính nhờ phản ứng lên men mà Hồng Trà có mùi thơm đặc biệt và trong trà có chứa nhiều hoạt chất có tác dụng kháng oxy hóa, đồng nghĩa với việc chống tình trạng lão hóa tế bào, chống nhờn và bổ sung chất dinh dưỡng thực vật cho cơ thể.
Vì tính năng đặc biệt này mà các hãng dược phẩm, kem chống lão hóa sử dụng các chiết xuất có trong Hồng Trà, đặc biệt là kem chống nhăn dành cho phụ nữ.
Thay vì uống nước lọc mỗi ngày, bạn hãy thử uống Hồng Trà nóng hoặc lạnh không đường. Không chỉ giúp bạn trẻ lâu mà uống Hồng Trà điều độ còn có tác dụng đốt mỡ và tăng cường quá trình chuyển hóa. Đó là lý do tại sao những người đang giảm cân lại chọn Hồng Trà cho thực đơn của mình.
Ngoài những lợi ích trên, Hồng Trà còn chứa nhiều chất tốt cho sức khỏe như: florua chống sâu răng và làm chắc men răng, tannins (một chất hóa học giúp tạo protein) làm êm và chống viêm đường tiêu hóa, theophylline – chất kích thích chống các căn bệnh đường hô hấp như hen suyễn…
Trà shan tuyết cổ thụ là đặc sản hữu cơ hội tụ đầy đủ dưỡng chất hàng đầu thế giới, trà sạch 100%, theo GS-TS Nguyễn Quốc Vọng
GS-TS Nguyễn Quốc Vọng
GS-TS Nguyễn Quốc Vọng cùng những thành viên của Hiệp hội Chè Việt Nam (VN) đi lang thang khắp vùng núi Đông – Tây Bắc, tìm đến các vùng trà shan cổ thụ, lấy mẫu, xét nghiệm, lập báo cáo khoa học chứng minh VN đang có những giống trà, sản phẩm trà hội tụ đầy đủ dưỡng chất hàng đầu thế giới, muốn người tiêu dùng thế giới thấy rõ giá trị thực của trà shan Việt.
Ở lĩnh vực nông nghiệp, GS-TS Nguyễn Quốc Vọng là nhà khoa học hàng đầu về rau quả và trà của châu Á được người Úc vinh danh. Trở lại VN lần này (GS-TS Vọng từng về VN làm việc, xây dựng nền móng cho ngành rau quả từ 2007 – 2016), ông tham gia cùng Hiệp hội Chè VN tập trung nghiên cứu hai dự án: Trà shan cổ thụ và tiếp thị trà Việt ra nước ngoài, với mong muốn góp phần nâng tầm vị thế trà Việt trên thị trường quốc tế.
Tìm hiểu và nghiên cứu về ngành trà Việt, ông nhận thấy ở đó những ưu điểm gì khiến ông chú ý?
Trà, vốn dĩ nó đã là ưu điểm. Trà chứa nhiều chất dinh dưỡng, đáng chú ý nhất là polyphenol, catechin trong lá trà tươi hoặc trà khô, là hoạt tính giúp con người làm chậm sự hình thành tế bào ung thư, hạ cholesterol xấu trong máu.
Người sử dụng trà thời hiện đại, không chỉ uống vì là thức uống, mà vì tác dụng y dược. Rất nhiều bạn bè quốc tế không biết VN có ngành trà, vì chúng ta tiếp thị theo cách cũ, không nói lên tính khoa học của trà Việt.
Cây chè cổ thụ hai người ôm không kín gốc ở thôn Giàng Pằng
Tôi tham gia vào dự án nghiên cứu trà shan, nhằm đưa ra những con số, như catechin trong trà đen, trà xanh, trà shan nó là bao nhiêu, và chất khác như a xít amin, vitamin C, caffeine, tanin, theanin… hàm lượng thế nào. Chúng tôi phân tích rất kỹ những hoạt tính như vậy, và sẽ tổ chức hội thảo, giới thiệu để thế giới biết đến trà VN mang đặc tính y dược rất tốt, là sản phẩm mà thế giới nên quan tâm.
Hẳn trà Việt cũng có những bất lợi mà quá trình nghiên cứu ông nhận ra?
VN sản xuất trà đen, trà xanh từ rất lâu (từ 1927 khi người Pháp lập đồn điền trà công nghiệp đầu tiên ở Cầu Đất, Đà Lạt – PV), đi vào thị trường quốc tế cũng rất lâu. Hiện nước ta xuất khẩu mỗi năm khoảng 150.000 tấn, nhưng bất lợi là trong quá trình dài, chúng ta ít, thậm chí không quản lý được vấn đề dịch hại, đôi khi trà chúng ta xuất khẩu vướng vào dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Người H’Mông hái trà shan cổ thụ ở Suối Giàng, Yên Bái
Một vài lần như vậy khiến trà công nghiệp của chúng ta bị mang tiếng không có chất lượng cao, không an toàn vệ sinh thực phẩm. Khi thương lái nước ngoài vào VN, họ dùng lý do đó hạ thấp giá mua. Kết quả mỗi năm dù xuất khẩu lớn (đa số trà đen), giá xuất khẩu của chúng ta chỉ từ 1,5 đến cao lắm là 2,5 USD/kg trong khi thế giới là 4 – 5 USD/kg.
Theo đánh giá của ông, quá trình này còn ảnh hưởng lâu dài không?
Còn ảnh hưởng lâu dài, cho đến lúc nào VN tự chứng minh với thế giới rằng trà chúng ta an toàn, không dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, có chất lượng cao.
Vậy trà shan cổ thụ có gì lợi thế trong cuộc chiến này?
Phát triển trà shan, nên theo hướng khác. Chúng ta sẽ nói trà shan là đặc sản của VN, không theo luồng chung như trà đen hoặc trà xanh đang xuất khẩu.
Làm như vậy để thị trường nước ngoài hiểu đây là loại sản phẩm đặc biệt, nó không dính vào bất cứ lỗi thông thường nào ở trà công nghiệp. Cộng với chứng minh trà shan có tính ưu việt về y dược, ưu việt về chất lượng, mọi người thấy rõ vì chúng sinh trưởng trong rừng, rất tự nhiên nên hữu cơ.
Người Dao thu hoạch trà shan cổ thụ trên dãy Tây Côn Lĩnh, Hà Giang
Điểm lợi thế khác là trà shan chỉ do người dân tộc thiểu số chăm sóc, tác động của con người với trà shan cổ thụ nhiều lắm mỗi năm 1 – 2 lần, cắt cỏ cho gốc, không tác động gì khác. Đây là loại trà tôi cho là hữu cơ tự nhiên 100%.
Nếu chúng ta tiếp thị ở nước ngoài, miêu tả đây là trà shan cổ thụ, làm bằng tay, thủ công nghệ, người dân tộc thiểu số làm, và hữu cơ, đặc tính y dược tốt, theo cách đó, sẽ bán ra nước ngoài với giá đúng với giá trị thực, tôi tính ít nhất 10 – 15, thậm chí 50 USD/kg.
Khai thác, cũng cần có chuyện bảo tồn, ông đã đi qua các vùng trà shan cổ thụ ở VN như Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang… Ngoài giá trị của trà, ông quan tâm điều gì khác?
Có mấy vấn đề cần chú ý, thứ nhất là việc bảo tồn. Trà shan cổ thụ là loại trà mọc tự nhiên trong rừng, VN là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng về biến đổi khí hậu xấu nhất, những cây sống lâu năm trong rừng già, núi cao như trà shan rất nhạy bén với biến đổi khí hậu.
Nhiệt độ tăng, hạn hán, bão tố nhiều, môi trường tiểu khí hậu thay đổi, cây trà sẽ chết. Vùng trà cổ thụ Suối Giàng (Yên Bái) là ví dụ điển hình. Nhà nước cần có chính sách bảo tồn vì đây là vốn rất quý của VN.
Thứ hai, trà shan trước đây ít người quan tâm, khi chúng tôi nghiên cứu và đưa ra những công bố khoa học về trà shan, đã có một số doanh nghiệp chú ý. Điểm tốt là người ta sẽ nhân lên, bảo tồn sản xuất trà shan, và không tốt là khả năng sẽ có sự can thiệp của hóa chất vào sản xuất, kêu gọi nông dân phun thuốc, đảm bảo số lượng. Khi đó trà shan sẽ không còn hữu cơ nữa, sẽ có kiểu lợn hai chuồng, rau hai luống. Chúng ta phải làm sao không để tình trạng đó xảy ra cho ngành trà shan.
Thứ ba, hiện 100% trà shan cổ thụ do người dân tộc thiểu số Dao, H’Mông, Tày, Thái chăm sóc, đây là những tộc người sống trên cao, đời sống khó khăn hơn so với người miền xuôi. Trà shan không đủ lượng tạo nguồn sinh kế thường trực, do vậy phải có chính sách đãi ngộ để người ta có tài chính cơ bản, có thì giờ chăm sóc trà shan. Nếu coi trà shan là vốn quý của đất nước, thì anh em dân tộc là người đại diện chăm sóc vốn quý ấy.
Trên bình diện quốc tế, không chỉ VN mà Trung Quốc, Lào, Myanmar, Thái Lan cũng có trà shan, chuyện cạnh tranh trên thương trường hẳn là có?
Trà shan đang là phong trào, người ta đang tiếp thị trà shan trên thế giới. Tương lai sẽ có cạnh tranh, chẳng hạn chuyện người nước ngoài vào VN mua trà shan nguyên liệu đã xảy ra từ rất lâu rồi. Nhưng đáng sợ hơn là tình trạng mua nguyên cây, chặt cây mang về nước họ. Nếu không quan tâm đúng mức và có chế độ quản lý tốt, với sự hợp tác của anh em dân tộc thiểu số, để gìn giữ bảo tồn, chỉ trong vòng 5 – 10 năm, sẽ không còn trà shan cổ thụ trên lãnh thổ VN.
Có cơ hội nghiên cứu trà shan, hẳn ông và Hiệp hội Chè Việt cũng đã đưa ra những quy chuẩn đề xuất để phân định thế nào là trà shan VN?
Về đặc tính vị trí, trà shan phải ở độ cao trên 1.000 m trong các khu rừng thuộc Điện Biên, Lào Cai, Sơn La, Hà Giang, Yên Bái… Đặc tính hình thái phải là cây cổ thụ, đường kính gốc ít là trên 20 cm. Vì sao? Vì lấy chuẩn những cây trà trồng ở Cầu Đất từ thời Pháp thuộc 1927, giờ có đường kính hơn 20 cm.
Chúng tôi lấy đó làm so sánh, trà cổ thụ phải là những cây trên 100 năm, cao 3 m trở lên, có hai giống lá xanh và lá đỏ. Khi các chỉ tiêu hoàn thiện, chúng tôi sẽ đăng ký để phân biệt muốn là chè shan VN phải đáp ứng những yêu cầu đó. Chúng ta phải làm theo tính pháp lý, không nói miệng như trước nữa.
Nói về các chỉ số của trà shan sau nghiên cứu, có điều gì làm ông ấn tượng?
Đây là lần đầu tiên có một nghiên cứu chỉ ra trong trà shan cổ thụ VN thuộc từng vùng thổ nhưỡng có những hoạt chất gì. Khi xem kết quả, tôi thực sự ngạc nhiên vì những chất như catechin, a xít amino… trong trà shan cổ thụ cao gấp 20 – 30 lần so với trà công nghiệp. Còn rất nhiều hoạt chất khác, trà shan cũng đều vượt trội so với các giống trà thông thường, kể cả so với những mẫu phân tích tôi có được từ trà Nhật, trà Sri Lanka, Ấn Độ.
Ông kỳ vọng gì ở nghiên cứu với trà shan?
Vai trò của tôi là tư vấn và nghiên cứu, tổng hợp tư liệu, thông tin, số liệu từ Hiệp hội Chè VN để viết thành báo cáo khoa học. Các nhà tài trợ cho dự án hỗ trợ kinh phí thực hiện, kết quả sẽ được Hiệp hội Chè VN công bố, dưới hình thức họp báo, hội thảo. Tôi cũng sẽ trích đăng những nghiên cứu trên tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước không chỉ bằng tiếng Việt, mà bằng cả tiếng Anh để mọi người biết và hiểu rõ hơn về trà shan.
Nghiên cứu về trà Việt, ông có cảm nghĩ, nhìn nhận gì về nhu cầu sử dụng trà, cách thức tiếp cận với trà của giới trẻ ngày nay?
Người trẻ trong nước cũng đang góp phần phát triển loại hình đặc sản trà shan cổ thụ. Tôi tham dự các cuộc thi Tea Master Cup (Vua pha trà Việt), thấy rất nhiều bạn trẻ tham gia, họ sử dụng trà shan, với những kỹ thuật pha chế, cách cảm thụ trà rất khác.
Năm 2018, trong hội thảo về nội dung tiêu thụ và sản xuất trà toàn cầu do nhu cầu mạnh mẽ ở Trung Quốc và Ấn Độ, diễn ra tại Hàng Châu, Trung Quốc, do FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp LHQ) tổ chức, báo cáo có đoạn: Trên thế giới đang dấy lên phong trào người trẻ uống trà, nhưng cách thức bây giờ khác xưa, họ sẵn sàng trả một khoản tiền lớn để uống trà, với điều kiện phải biết trà đó có chất dinh dưỡng thế nào, và xuất xứ từ đâu.
Trà Shan Tuyết của Việt Nam đang ngày càng được đánh giá cao trên thị trường quốc tế. Nguyên do đầu tiên chắc hẳn phải kể tới phẩm chất quý hiếm và tinh sạch của thức trà này.
Việt Nam là một trong những nước hiếm hoi trên thế giới sở hữu loại cây chè Shan Tuyết. Đặc tính sinh trưởng hoang dã và lịch sử lâu đời đã góp phần bảo chứng cho sự quý giá này.
Và nếu từng thử một chén trà Shan Tuyết bất kỳ, thưởng khách chắc hẳn sẽ vô cùng ấn tượng với sắc nước sáng trong tựa mây trời, vị hoang sơ của cây cỏ núi rừng, nét óng mượt của mật rừng phương Bắc.
Trên tất cả đỉnh cao thuộc về dư vị trà mang tên Shan Tuyết nước Việt.
———————————————————————————
GS-TS Nguyễn Quốc Vọng sinh năm 1946. Tốt nghiệp tiến sĩ ngành nông nghiệp sinh vật học tại ĐH Tokyo (Nhật Bản). Là chuyên gia nông nghiệp thuộc Trung tâm xuất sắc tiếp thị và nông nghiệp nhà kính, Viện Nông nghiệp Gosford, thuộc Bộ Nông nghiệp bang New South Wales (Úc).
Giáo sư của Trường Khoa học ứng dụng, ĐH RMIT (Úc), giảng viên thỉnh giảng của nhiều trường ĐH ở Nhật Bản, Úc, VN như trường ĐH Cần Thơ, ĐH Nông – Lâm Huế và ĐH Nông nghiệp Hà Nội.
Ông là người có công đưa các giống trà Nhật sang Úc từ 1995, khi đang còn là chuyên gia của Bộ Nông nghiệp Úc.
Nguồn: Snow Shan & Thanh Niên.